Phần 1: Giới thiệu về đấu giá

Bài này mình dịch từ một trong những tài liệu học của mình về Quản lí nghệ thuật của cô Kathleen Gallagher. Đa số nguồn tham khảo là cách sách vở cũng hơi cũ, mình chưa tìm được nguồn online. Khi nào tìm được mình sẽ update dần dần. 

Các yếu tố của một buổi đấu giá

  • Người tham gia

Thường sẽ có hai bên, bên mua (bidder) và bên bán (seller), có khi có thêm một bên thứ ba, là người điều khiển phiên đấu giá (Auctioneer), hoặc là nhà đấu giá (auction house). Auctioneer sẽ tổ chức buổi mua bán và nhận hoa hầu tuỳ thuộc vào giá cả của vật phẩm. Một dạng khác là thay vì nhận tiền từ bên bán, auctioneer sẽ lấy tiền của bên mua. Tuỳ vào tính chất và các điều kiện ngoại cảnh khác, hoàn cảnh của mỗi đợt mua bán có thể thay đổi, nhưng tựu trung thì bên mua và bên bán phải đạt được thoả thuận chung về vật phẩm.

  • Độ hiếm của vật phẩm 
Đối với hàng bán đại trà thì nhà phân phối rất khó định giá của mỗi sản phẩm được mua sau một thương vụ, nhưng đối với hàng quý hiếm thì người bán là người nắm quyền định giá. Vật phẩm sẽ thuộc về người trả giá cao nhất.

Các loại đấu giá

Có 4 loại đấu giá: English auction, Dutch auction, first-price sealed-bid auction, second-price sealed-bid auction.
  • English auction là loại thường gặp nhất. Bên mua hoặc bên bán sẽ đưa giá, giá được thương lượng cho tới khi cuộc chơi kết thúc và chỉ còn một người mmua. Giá chốt được gọi là “hammer price” (bạn xem các buổi đấu giá sẽ thấy là auctioneer thường gõ búa “sell”, hammer price là từ ngữ cảnh đó mà ra). Với loại đấu giá này, người mua được biết là mức giá đã tăng lên như thế nào. Thường English auction được dùng trong mua bán mĩ thuật, đồ cổ, và rượu.
  • Dutch auction: Auctioneer bắt đầu ra giá lần đầu thật cao, sau đó hạ giá dần dần xuống, cho tới khi bidder chịu không nổi nữa và rời cuộc chơi (gọi là “mine”). Các bidders không được phép biết bidder khác đưa giá như thế nào. Dutch auction thường dùng trong mua bán cut flower, cá, thuốc là ở nhiều nước.
  • First-price sealed-bid auction: Đấu giá kín: các đối thủ báo giá trong vòng bí mật. BIdder chỉ có một cơ hội, không được sửa giá. Việc này sẽ tạo ra một lời chào hàng với giá cao nhất trong mức chi trả của bidder. Loại đấu giá này được dùng cho quyền khai khoáng trên đất đai mà chính phủ sở hữu ở Mĩ.
  • Second-price sealed-bid auction: Phương thức bí mật như First price sealed-bid. có điều người thắng cuộc sẽ trả bằng số tiền của người bid giá cao thứ hai. Loại này không thường được sử dụng.
4 loại đấu giá nói trên chỉ là loại cơ bản. Trong thực tế ta có thể thấy khác một chút tuỳ thuộc vào mức giá nên mà bên seller đưa ra, phí tham gia mà bidder phải trả, hoặc giới hạn về thời gian. Với sự có mặt của các yếu tố này thì hành vi của người tham gia đấu giá sẽ thay đổi theo.

Tại sao đấu giá có thể tồn tại được lâu đến vậy? 

  • Sự khan hiếm: Theo lí thuyết kinh tế, thị trường sẽ đáp trả lại sự khan hiếm bằng cách tăng giá cho đế khu Cầu giảm bằng với ạn mức mà Cung có thể đáp ứng được. Giá cả tặng lên không có nghĩa là vật phẩm đó được nhiều người ham muốn hơn vì nó quý hiếm. Thực chất là việc có nhiều người cùng cạnh tranh để mua vật phẩm đó đẩy giá bán lên cao, chứ không phải là vì vật phẩm đó hiếm nên nó mới được nhiều người ham muốn. Nói nôm na là vì có “vạn người mê” nên vật phẩm mới có giá, chứ không phải vì nó hiếm nên mọi người mới quý trọng giá trị của nó.
Trong các nghiên cứu tâm lí học, người mua thường hay nghĩ là nếu giá cao thì hẳn sản phẩm đó phải chất lượng cao. Vì thế, khi thấy vật phẩm hiếm có giá quá cao, người tiêu dùng nghĩ ngay rằng đó là do vật phẩm đó có chất lượng quá tốt, vì vậy họ càng thèm muốn sở hữu hơn nữa. Trong The Theory of the Leisure class (1899/1965) của Thorsten Veblen, ông viết rằng con người muốn phô trương sự giàu có  của mình thì phải mua đồ đạc thật mắc tiền. Việc sở hữu các đồ đạc hiếm gây dựng cho họ một hình tượng cá nhân và tạo cảm giác về sự độc nhất.
Vật phẩm hiếm —> Giả thiết rằng nó phải đắt tiền —> Cho rằng nó có chất lượng tốt
                                                                                 —> Tạo cảm giác rằng mình cũng có địa vị xã hội ——> Tăng cảm giác thèm muốn sở hữu
Ta thấy rằng giá của vật phẩm hiếm không phải được định đoạt bằng lí do kinh tế, mà lí do tâm lí nhiều hơn.
  • Sự bất đối xứng về thông tin 
Bên bán biết giá trị của vật phẩm mà họ đem bán, họ có thể ước chừng được giá mà thị trường sẽ trả. Bên mua thì lại không biết buổi đấu giá sẽ có những ai tham gia, ai bid, họ cũng không biết mỗi người định bid bao nhiêu, trong giới hạn bao nhiêu, vì vậy họ không thể nào đoán được giá bid cao nhất, và cũng không biết được ai sẽ là người trả giá cao nhất.
Auction house cố gắng lôi kéo bidder bằng cách phân nhóm và đưa thông tin chào hàng, quảng cáo, quảng báo event để thu hút nhiều bidder nhất có thể. Nhờ có thông tin đó, các bidder cảm giấy đỡ rủi ro hơn, họ lại càng đấu giá hăng hơn, giá của vật phẩm cũng từ đó mà leo thang. Auction house sẽ xuất bản catalogue, trong đó đưa ra mức giá trần và giá sàn của vật phẩm, tới lúc cuộc mua bán xảy ra thì giá này cũng khá là tương quan. Auction house thành công khi họ tìm được nhiều bidder sẵn sàng trả giá cao hơn là những người đúng ngoài nhìn, có ý định mua nhưng còn chần chừ (contender). Công việc của Auction house là tạo điều kiện cho mỗi vụ mua may bán đắt.
Bên mua, bên bán và auctioneer, mỗi bên có luồng thông tin khác nhau, và hành vi của họ cũng thay đổi từ đó mà ra. Việc thông tin được giấu đi hoặc được tiết lộ một cách có tính toán là yếu tố để chốt giá của một phiên đấu giá.
  • Sự định giá 
Cũng như bất kì một thương vụ nào, bên mua và bên bán sẽ tự định ra giá trị của vật phẩm. Ví dụ bạn đi mua trái cây, thấy giá của táo thì cao hơn giá của cam, nhưng với bạn thì ăn cam hay ăn táo cũng như nhau, như vậy bạn sẽ không muốn trả tiền cao hơn để mua táo. Tương tự như vậy, khi biết giá, người bid sẽ tự xác định xem họ thấy cái giá đó có đáng với giá trị mà họ ấn định cho vật phẩm đó không.
  • Bidding cạnh tranh
Việc đưa ra luật và thủ tục là để hợp thức hoá việc ra giá. Quá trình thương lượng hoặc bidding được xem là công bằng để xác định mức giá. Sự cạnh tranh trong bidding có thể xuất hiện trong đấu giá, làm cho người bán được lời. Tuy nhiên, không thể xem đấu giá là một phương thức hiệu quả để trao đổi hàng hoá (Rothkopf & Harstad, 1994).
  • Mức chống chịu với rủi ro 
Trong đấu giá thì rủi ro là người bán sẽ không đạt được mức giá họ mong muốn. Kinh tế, chính trị và sự đông đúc của buổi đấu giá, mặc dù không trực tiếp liên quan tới vật phẩm nhưng có thể làm thay đổi mức địch giá của thị trường. Để giảm rủi ro thì ta có giá sàn (reserve price) và bảo đảm (guarantee).
Giá sàn là mức giá thấp nhất mà seller chấp nhận được. Eric Greenleaf có một thử nghiệm trong đó mỗi người tham gia, dưới tư cách seller, đưa ra mức giá sàn. Gần như toàn bộ seller đều đặt mức giá sàn cao hơn giá trị của vật phẩm. Điều này xung khắc với quyền lợi của bên auction house, vì họ muốn bán được tất cả vật phẩm. Nhà đấu giá lúc đó sẽ tư vấn cho người bán cách để đặt mức giá sàn.
Ví dụ, giá trước khi bán được định là từ $800 đến $1000, công thức để định giá sàn là 2/3 của mức giá median mà nhà đấu giá định. Trong trường hợp này, auction house đưa ra mức median là $900 và gợi ý là mức giá sàn nên là $600, rõ ràng là thấp hơn so với mức giá ước tính trước khi bán. Mức này giúp bảo vệ người mua. Việc này dẫn tới việc mặc cả khi đấu giá.
Buy-in penalties là mức phạt để bảo vệ lời của nhà đấu giá và giúp khuyến khích một mức giá sàn lành mạnh. Nếu sau buổi bid mà không đạt được giá sàn thì vật phẩm được “bought in”. Lúc này seller đồng ý trả buy-in commission nếu vật phẩm đó không bán được. Seller lại còn phải chịu thêm chi phí để bán được một vật phẩm, kiểu bán đại hạ giá.
Auction house sẽ thương lượng guaranteed price với người bán. Auction house bảo đảm sẽ trả cho người bán một số tiền tối thiểu, dù cho là bidding vật phẩm bị ế. Nếu bidding không đạt được mức guaranteed price, vật phẩm sẽ được nhà đấu giá mua lại, trả cho seller một khoản tiền. Sau đó vật phẩm sẽ được bán ở thị trường thứ cấp (secondary market), gọi nôm na là bán kiểu chợ đen.
Phương thức này giúp giảm rủi ro cho seller, thường được sử dụng trong quyền thừa kế, nhất là liên quan tới bất động sản, nhưng lại thiệt thòi cho auction house. Để chào mời được seller, auction house phải chấp nhận rủi ro, nếu không thì người bán có thể sẽ làm việc với một auction house khác.
Photo: Hình mình chụp ở Oakland Art Walk tháng 2, 2018.
Kì sau: Thị trường nghệ thuật và yếu tố định giá nghệ thuật.

Comments

comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *