Từ hồi đầu năm 2017, có tháng mình đi xem Broadway hết 4 lần, trung bình mỗi tuần đi xem 1 lần. Một điều mình thích ở theatre là nó phản ánh thực tại của những diễn biến xã hội ở Mĩ.
Các bạn hay nghe nói tới Broadway và nghĩ rằng nó đại diện cho hệ thống Theatre ở Mĩ. Bức tranh toàn cảnh thực chất rộng hơn Broadway nhiều. American theatre có 3 loại format: thương mại (commercial), giáo dục (educational), và cộng đồng (community). Thường thì educational và community thuộc về nhà hát non profit. Trừ Broadway, các production house dạng lưu diễn và các nhà hát thương mại ở Las Vegas, thì tất cả còn lại ở Mĩ là các nhà hát phi lợi nhuận. Sự khác nhau chủ yếu đến từ cách vận hành về mặt tài chính của 2 loại hình này:
Commercial theatre | Non profit theatre |
Thường là do partnership hoặc 1 cty đứng ra sản xuất một vở duy nhất rồi sau đó rã đám. | Trên lí thuyết thì vở diễn cứ tiếp tục dài hạn, sản xuất một vài vở diễn cho một mùa công chiếu. |
Một vở diễn còn được tiếp tục sản xuất chừng nào mà vé vẫn bán chạy. | Vở diễn thường chốt ngày kết thúc rõ ràng, ít có khi diễn mà không rõ ngày kết thúc |
Nhà sản xuất không nhất thiết sở hữu hoặc vận hành nhà hát. | Sau một vài năm khởi động, phần lớn các nhóm sở hữu hoặc thuê dài hạn và tự vận hành không gian nhà hát của họ. |
Doanh thu phòng vé quyết định show đó có được chiếu nữa hay không. | Chỉ có khoảng 40-60% doanh thu đến từ phòng vé. |
Lợi nhuận của nhà đầu tư sẽ bị đánh thuế, nếu lỗ thì được khấu trừ. | Thu nhập hoặc thặng dư sẽ được giữ lại phục vụ các hoạt động khác của nhà hát, còn thường quyên góp cho các nhà hát phi lợi nhuận thì không bị đánh thuế. |
Thế nào là một nhà hát Broadway?
Actor’s Equity và the League of American Theatres and Producers định nghĩa Broadway là bất cứ nhà hát thương mại nào ở New York City. Thực chất Broadway chỉ gói gọn trong các nhà hát ở midtown Manhattan với trên 500 ghế. Chỉ có những vở diễn tại các nhà hát này mới được tranh giải Tony Awards. Tính tới năm 2017, có 40 nhà hát Broadways tuỳ số ghế, nhỏ nhất là nhà hát Helen Hayes (597 ghế, xây dựng từ năm 1912), lớn nhất là nhà hát Gershwin (1933 ghế, mở cửa năm 1972). Các nhà hát khác, với số ghế từ 100-499 được gọi là nhà hát off-Broadway, ví dụ như Snapple Theatre Center ở góc 50th Street và Broadway. Off-Broadway bao gồm cả commercial producer và các công ty production nonprofit. Số nhà hát Broadway khi nhà hát được xây mới hoặc cải tạo, hoặc được sửa sang để sử dụng cho mục đích khác.
Luật Công đoàn áp dụng riêng biệt cho các nhà hát Broadway so với các địa điểm công chiếu chuyên nghiệp khác ở New York.
Các vở diễn Broadway thường có ngân sách lớn, quảng cáo rình rang nên được truyền thông quan tâm, trong khi đó các nhà hát phi lợi nhuận thường phục vụ cho một nhóm người trong một cộng đồng nhỏ. Nhà hát được xem như một loại hình nghệ thuật live, vì không thể quay phim hay xem lại, vì vậy phần lớn người Mĩ tiếp cận được với nhà hát là thông qua loại hình nhà hát non-profit.
Nhà hát non-profit tồn tại không phải với mục đích lợi nhuận, mà để phục vụ cho một cộng đồng nào đó chứ không phải để chạy theo thị hiếu.Với nhà hát nonprofit, ưu tiên tối ưu là cho tổ chức và sứ mệnh nó đề ra. Ví dụ, nếu sứ mệnh của nhà hát là phục vụ cho cộng đồng người da màu, thì nhất định trong cách chọn chương trình phải xoanh quanh kim chỉ nam đó, không thể vì chạy theo lợi nhuận mà đổi show tứ tung chỉ để bán vé. Nhiều năm liền, đến hẹn lại lên, cứ cuối năm là bạn sẽ thấy A Christmas Carol hoặc vở Guthrie, đó là kiểu con gà đẻ trứng vàng cho nhà hát nonprofit, lợi nhuận của các vở này sẽ được dùng để đầu tư cho các show diễn kén người và có khả năng lỗ cao khác. Tương tự như trong ballet, năm nào bạn cũng thấy Nutcracker, cũng là con gà đẻ trứng vàng để nuôi các show diễn có tính thử nghiệm cao khác.
Nhà hát non-profit còn có chức năng giáo dục, ví dụ như giáo dục về lịch sử Mĩ, giáo dục về đa dạng văn hoá và sắc tộc, giáo dục về một số mảng đề tài xã hội như quyền bình đẳng, liên kết với các trường học đỉa phương để nâng cao hiểu biết cho thanh thiếu niên, hoặc liên kết với Museum trong vùng để mở rộng trải nghiệm của khán giả
Đối với ban quản trị, ở nhà hát commercial, họ quan tâm tới từng chi tiết nhỏ; trong khi đó với Ban Chấp Hành của non profit, thì họ chỉ muốn nhìn thấy bức tranh tổng thể.
Về việc gây quỹ, ở nhà hát non profit, thường gây guỹ thì thông điệp bên phòng Development (là phòng ban đi làm Fund raising) đưa ra là để thuyết phục nhà hảo tâm ủng hộ cho một sứ mệnh, cho một tổ chức, chứ không phải là ủng hộ cho một show cụ thể nào đó. Mặt khác, đối với nhà hát commercial, nhà đầu tư chạy theo lợi nhuận, show nào ăn khách thì họ đầu tư. Nếu ở nhà hát nonprofit có một team để đi làm fund raising, thì với commercial producer, bạn là người duy nhất tự đi tạo dựng mối quan hệ với nhà đầu tư.
Về mặt sản xuất, hai phía nhà hát đều gặp giới hạn về thời gian, tiền bạc, công sức. Thường với các show Broadway, ngân sách sẵn có cao, dẫn tới việc team làm việc không hiệu quả hoặc không có hệ thống, thiếu sáng tạo.
Về mặt nuôi dưỡng khán giả, nonprofit làm tốt hơn commercial ở chuyện nuôi dưỡng một tầng lớp khán giả về lâu về dài, làm sao để họ thật sự yêu thích loại hình nhà hát, chứ không chỉ là nuôi khán giả theo từng show.
Trong mô hình nhà hát có một dạng deal gọi là enhancement deal, như nhà báo Campbell Roberston có định nghĩa là “Nonprofit Show, but Money’s Riding On It.”
Enhancement deal dùng để nói về khi một nhà sản xuất thương mại (commercial producer) trả tiền cho nhà hát nonprofit để gánh bớt chi phí sản xuất vở diễn. Ví dụ như khi nhà hát non profit đồng ý cho chạy một vở nhạc kịch lớn, commercial producer sẽ thảy vào hàng trăm ngàn dollars, hoặc vài triệu, để tăng giá trị sản xuất của show. Số tiền đầu tư này không phải đóng thuế, commercial producer được lợi về nghiên cứu thị trường (một dạng kiểu cho chạy thử ở nhà hát nhỏ để đánh giá xem sau này khi ra nhà hát lớn thì thu hoạch sẽ ra sao), trong khi đó nhà hát nonprofit thì được lợi về quy mô sản xuất, và có khi vở diễn tạo tiếng vang về mặt thương mại, thì sau này nhà hát non profit cũng được lợi về tiền bản quyền.
Enhancement deal rất phổ biến và hoàn toàn hợp pháp, nhưng cũng gây không ít tranh cãi trong thế giới non profit. Một mặt là vì việc nhận tiền từ commercial producer đồng nghĩa với việc nhà hát non profit phải chiều theo ý của producer, dù định hướng có phù hợp hay không. Một ví dụ là vở nhạc kịch Rent, bắt đầu là dạng production off Broadway ở NYC Theatre Workshop, có sự đầu tư của enhancement deal. Sau khi vở diễn thành công về mặt thương mại, NYC Theatre Workshop nhận tiền bản quyền, giúp họ có điều kiện sáng tạo thêm nhiều vở diễn, trong đó có một số vở có thể bị lỗ vốn về thương mại. Nếu không có tiền bản quyền như đã nói, một nhà hát non profit có thể không bao giờ có đủ tiền để mạo hiểm thử nghiệm các vở diễn lạ trong tương lai. Dù nhận được tiền bản quyền từ vở nhạc kịch Rent, Artistic Director của NYC Theatre Workshop, trong buổi phỏng vấn với New York Times, vẫn nói rằng ông rất tiếc vì đã nhận enhancement deal, vì điều đó cho phép commercial producer can thiệp sâu vào chuyên môn sáng tạo của bên Chỉ đạo nghệ thuật, và làm “ô nhiễm và biến dạng môi trường làm việc của chúng tôi”.
Dưới góc nhìn đời sống của nghệ sĩ, thường ở Broadway, các nghệ sĩ tập luyện trong thời gian dài để sống với hào quang của một vở diễn trong một vài ngày, và tạm thời thất nghiệp trong thời gian còn lại của năm. Việc tham gia nhà hát nonprofit giúp cho nghệ sĩ có nguồn thu ổn định. Nhà hát trả tiền cho nghệ sĩ thường không theo kịp với tỉ lệ lạm phát. Nghệ sĩ lúc mới vào nghề cần có một môi trường luyện tập và biểu diễn, lúc đó họ có thể tìm tới nhà hát non profit. Nói cách khác, với nhà hát commercial, nghệ sĩ giống như ‘bò sữa’, bị vắt sức trong một vài buổi diễn rồi nghỉ khoẻ, nhưng để đạt được tới đó thì nghệ sĩ cần phải có môi trường nuôi dưỡng nghệ thuật, đó là vai trò của nhà hát non profit.
Hiện nay thì sự giao thoa giữa non profit và commercial thường thấy là ở các vở nhạc kịch, vì chi phí sản xuất cao với các show quy mô lớn, dàn diễn viên đồ sộ, thêm chi phí cho dàn nhạc giao hưởng cũng tăng lên.
Nhà hát cho chạy bao nhiêu vở diễn trong một năm?
Khi lên plan cho số vở diễn, có 3 trường hợp là Long Run, Limited Run, hoặc Repertory system.
- Long run: Tiếp tục công chiếu chừng nào vẫn còn có lợi nhuận, và đóng rạp nếu chi phí vận hành quá cao sau 2 tuần liền ra mắt.
- Limited run: Vở diễn chỉ được ra mắt với một số lượng buổi chiếu nhất định.
- Repertory: Một số lượng vở diễn khác nhau được xoay vòng ra mắt trong vòng một mùa.
Số buổi diễn kiểu Limited run là tuỳ thuộc vào dự báo về số lượng khán giả và công suất ghế của nhà hát. Khoảng 2% khán giả tiềm năng sẽ trả tiền cho live theatre. Ví dụ như một vùng có dân số là 50,000 người, công ty sản xuất phải định lượng bán được khoảng 1,000 vé. Theatre manager phải bán được một nửa số ghế mới đủ bao chi phí vận hành, vì vậy sẽ có khoảng 2 buổi diễn trong 1 nhà hát 1,000 ghế (nhà hát JFAC Mainstage), hoặc 4 buổi diễn ở một nhà hát 500 ghế (Capitol Theatre), hoặc 8 buổi diễn ở nhà hát 250 ghế.
Thường thể loại Long run được áp dụng cho Broadway, một mùa Broadway sẽ có khoảng 36 tới 43 show. Trong 5 mùa công chiếu từ tháng 6-2007 tới tháng 5-2012, trung bình có khoảng 40 buổi công chiếu một năm.
Limited Run thường chỉ áp dụng với các vở cũ được làm lại, như vở Long Days Journey into Night, Death of Salesman hoặc Streetcar Named Desire. Vấn đề là do các diễn viên ngôi sao chỉ có thể tham gia được trong vòng 6 tới 8 tuần.
Thể loại Reportory thường được dùng ở nhà hát nonprofit, bao gồm nhà hát Opera (New York’s Metropolitan Opera), các công ty khiêu vũ (New York City Ballet, Martha Graham Dance Company), festival mùa hè (Stratford Shakespeare Festival of Canada).
Top 10 vở diễn được công chiếu lâu nhất ở Broadway đều là Musicals!!
- The Phantom of the Opera* (1988- )
- Chicago* (Revial) (1996- )
- The Lion King* (1997- ) – (Visit the official The Lion King Web site),
- Cats (1982-2000) – 7,485 suất chiếu
- Les Misérables (1987-2003) – 6,680 suất chiếu
- A Chorus Line (1975-1990) – 6,137 suất chiếu
- Oh Calcutta (phiên bản năm 1976-1989 là bản làm mới của phiên bản 1969) – 5,959 suất chiếu.
- Mamma Mia (2001-2015) – 5,578 suất chiếu
- Wicked* (2003- )
- Beauty and the Beast (1994-2007) – 5,461 suất chiếu
Các vở diễn có dấu * vẫn còn được công chiếu tính tới ngày 30-12-2016.
Một vở commercial Broadway production sẽ được trình diễn trong 416 buổi (8 buổi 1 tuần) trong 1 năm.
Chi phí sản xuất của nhà hát Broadway và off-Broadway
Một vở Off-Broadway ngốn chừng một nửa chi phí để sản xuất một vở Broadway. Giá vé xem show off-Broadway bằng khoảng một nửa vé xem Broadway. Vở diễn được công chiếu lâu nhất off-Broadway là vở Perfect Crime (1987) , ở nhà hát Anne L. Bernstein (194 ghế) ở Snapple Theatre Center, giá vé lúc đó là $60. Lợi nhuận gross hàng tuần vào khoảng $93,000.
National tour và bus-and-truck tour
Ý tưởng là, nếu khán giả không đến được với mình, mình phải chủ động đến với khán giả.
National tour là phiên bản của Broadway production, tiếp tục được công chiếu chừng nào vé còn bán được, thường ở Chicago, Los Angeles, Toronto, San Francisco. Lúc xưa, national tour thường được chuyên chở trên xe lửa, sau này thì kiểu mini show trên xe bus hoặc xe tải.
Bus-and-truck (B&T) company thường là phiên bản nhỏ hơn của Broadway show, công chiếu cho những cộng đồng nhỏ. Phiên bản B&T của Phantom of the Opera đã lưu diễn 6 tuần qua Seattle, Minneapolis, Nashville, với xe tải chở đạo cụ, ánh sáng, quần áo, đồ diễn của show.
Ngoài ra còn có các công ty lưu diễn nhỏ khác như Chicago, the Musical thường diễn các show one night stand, với 1 xe tải và 2 xe bus, một bus để chở đội Coach, một bus để chở đội diễn viên. Xe đến nơi lúc 8am, diễn 2 suất bao gồm một buổi matinee lúc 5pm và một suất diễn tối lúc 8pm. Đến 11pm, đội ngũ bắt đầu dọn đồ khoảng 3 tiếng để lên xe. Lúc 1am thì cả 3 xe tải và nhóm người lại tiếp tục di chuyển tới nơi diễn kế tiếp. Diễn viên sẽ đến nơi khoảng 3pm, check in khách sạn rồi đến nhà hát lúc 4pm. Sau khi diễn 2 vở, xe bus lại chở họ về hotel, và lại tiếp tục lên đường vào 9am sáng hôm sau, lúc đó họ đã kịp load đồ đạc ở nhà hát hát kế tiếp.
Gorilla Tango Theatre – For profit theatre
Gorilla Tango Theatre (GTT) là một dạng nhà hát có lợi nhuận. Concept của nhà hát này cũng dựa theo cách hoạt động của ngành truyền hình và phim: Creative Director và Đạo diễn chỉ tập trung chuyên môn sáng tạo, còn lại business hoặc TV network thì để cho người làm business lo.
GTT đưa ra deal cho producer, trong đó nhà sản xuất không cần phải ứng trước kinh phí. GTT chạy sô 7 đêm một tuần, slot nào chưa được book thì sẽ mở ra cho producer khác. GTT cung cấp hạ tầng: Không gian biểu diễn, tập dượt, dịch vụ bán vé, quản lí nhà hát, bán vé online, marketing cơ bản, hệ thống âm thanh/ánh sáng, máy chiếu, v.v. Producers phải cung cấp show diễn và tự marketing để đem tới lượng khán giả vừa đủ để đảm bảo doanh thu tối thiểu để cover chi phí đầu người hàng tháng của GTT. Doanh thu bán vé tối thiểu là 250$/show/h, tất cả doanh thu vượt qua mức đó được gọi là lợi nhuận, được chia 50/50 giữa bên producer và GTT. Hơn 80% show tại GTT là show có lời, nên producer không phải trả phí gì cho GTT mà GTT sẽ chỉ kí séc cho producer sau khi show cuối cùng đã hạ màn. Show nào có lời thì có thể được ra mắt rộng rãi tại GTT và các địa điểm khác, và có thể được duyệt lại để phát triển và phân phối thông qua hệ thống Gorilla Tango Capital.
Source:
- http://www3.northern.edu/wild/th100/_Chapt10.htm
- https://www.sc.edu/uscpress/books/2010/3907x.pdf
- http://www.americantheatre.org/2014/03/13/relationship-between-commercial-not-for-profit-theatres/
- http://www.americantheatre.org/2016/10/25/same-job-different-business/
- http://education.goodmantheatre.org/resources/study-guide-archive/the-convert/travel-transfers-and-enhancement/
- https://www.youtube.com/watch?v=ADG8PkoCPMs
- Performing Arts Management: A Handbook of Professional Practices
- http://www.playbill.com/
Photo source: Timeout